• Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội
  • Công ty Luật TNHH Toàn Quốc
  • MST: 0108718004

Luật sư tư vấn gọi: 1900 6500

Dịch vụ tư vấn trực tiếp: 0918243004

Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ...cấu thành tội..hình phạt khi vi phạm...các dấu hiệu về gây hậu quả nghiêm trọng

  • Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
  • Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
  • Pháp Luật Đất Đai
  • 19006500
  • Tác giả:
  • Đánh giá bài viết

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Kiến thức cho bạn:

     Quy định của luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Kiến thức của Luật sư:

Căn cứ pháp lý:

Nội dung tư vấn:

     Quy định của luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

     1. Nội dung quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

    Điều 8 BLHS 1999 quy định:

Điều 8. Khái niệm tội phạm

1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

     Điều 202 quy định:

     “1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

     2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

     a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

     b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

     c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

     d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

     đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

     3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm

     4.Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

     5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

     Theo đó, cụ thể tại nghị quyết 02/2003/NQ- HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao quy định tại điều 4 như sau:

     “4. Về các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự

     4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

     a. Làm chết một người;

     b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

     c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

     d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

     đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

     e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

      4.2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

     a. Làm chết hai người;

     b. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

     c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

     d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;

     đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

     e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

     4.3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

     a. Làm chết ba người trở lên;

     b. Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

     c. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

     d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

     đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 200%;

     e. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản được hướng dẫn tại điểm e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

     g. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên.”

     2. Phân tích cấu thành tội phạm

     2.1. Chủ thể của tội phạm

  • Chủ thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải là: người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Cần phân biệt thêm người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ cũng là người tham gia giao thông, tuy nhiên không phải người tham gia giao thông nào cũng là người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Đây là điểm phân biệt tội này với các tội phạm vi phạm an toàn giao thông khác.
  • Theo luật giao thông đường bộ 2008 (điều 3) người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là: người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

     Trong đó:

      Xe cơ giới gồm: xe ô tô; máy kéo; rơ mooc hoặc sơ mi rơ mooc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.

     Xe thô sơ gồm: xe đạp (kể cả xe đạp máy); xe xích lô; xe lăn dùng cho người khuyết tật; xe súc vật kéo và các loại xe tương tự.

     Xe máy chuyên dùng gồm: xe máy thi công; xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp; và các loại xe đặc chủng khác dùng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia giao thông đường bộ.

  • Chủ thể tội phạm này có một số điểm lưu ý:
    • Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm;
    • Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ không phải chịu hình phạt về tội này bởi cấu thành tội phạm này là tội phạm được thực hiện do vô ý và trong khung hình phạt không có mức đặc biệt nghiêm trọng.
[caption id="attachment_30268" align="aligncenter" width="206"]Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ[/caption]

     2.2. Khách thể của tội phạm

     Trong tội phạm này một trong số các quan hệ xã hội hoặc toàn bộ các quan hệ xã hội sau được pháp luật hình sự bảo vệ mà bị xâm hại: đó là sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác.

     Tội phạm này trực tiếp xâm hại tới trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại tới tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác (đây là đối tượng chịu tác động trực tiếp từ hành vi phạm tội gây nên).

     2.3. Mặt chủ quan của tội phạm

  • Lỗi: Lỗi của chủ thể vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là lỗi vô ý: vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cầu thả

     +Vô ý vì quá tự tin: người vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tuy thấy trước được hành vi của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội nhưng hoàn toàn cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

     +Vô ý do cẩu thả: người vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không thấy trước được hành vi của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù phải thấy trước được hoặc có thể thấy trước được hậu quả đó.

      2.4. Mặt khách quan của tội phạm

     Mặt khách quan của tội này gồm có các yếu tố hình thành sau: hành vi khách quan, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả.

  • Hành vi khách quan: hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

     Phân tích: Theo Luật giao thông đường bộ, quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các phương tiện giao thông đường bộ như sau: việc chấp hành báo hiệu đường bộ; tốc độ và khoảng cách giữa các phương tiện tham gia giao thông; sử dụng làn đường; vượt xe; chuyển hướng xe; lùi xe; tránh xe đi ngược chiều; dừng, đỗ xe trên đường (trong và ngoài đô thị); điều khiển phương tiện giao thông đường bộ qua cầu, phà, trong hầm đường bộ và tại các nơi giao cắt;..

     Và quy định về: người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy; người điều khiển và người ngồi trên xe đạp, người điều khiển xe thô sơ khác, người đi bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật đi trên đường bộ;

     Cần lưu ý: người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là người trực tiếp điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ và xe máy chuyên dùng.

     =>Theo đó, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội này cần phải xác định người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đã vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như thế nào trong Luật giao thông đường bộ đã bị vi phạm.

  • Hậu quả hay thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra: gây thiệt hại là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Theo quy định tại khoản 1, điều 202, Bộ luật hình sự hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chỉ bị coi là phạm tội khi hậu quả của hành vi là: gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác.

     Chi tiết quy định cụ thể: theo thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT quy định về: Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc hành vi gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 điều 202; hoặc Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc hành vi gây hậu quả rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 điều 202; hoặc Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc hành vi gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 3 điều 202 là giống như quy định tại nghị quyết số 02/2003/NQ- HĐTP của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao.

  • Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả khi nhận định tội phạm được quy định tại điều 202 này. Cũng có nghĩa là về mặt thời gian thì hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải xảy ra trước hậu quả nêu trên. Hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải chứa đựng khả năng thực tế phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội được quy định ở trên và đồng thời trên thực tế đã phát sinh hậu quả của hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

     3. Hình phạt

     Phạm tội thuộc khoản 1, điều 202: phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm

     Phạm tội thuộc khoản 2, điều 202: từ 03 năm tới 10 năm.

     Phạm tội thuộc khoản 3, điều 202: từ 07 năm tới 15 năm.

     Phạm tội thuộc khoản 4, điều 202: phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

     Hình phạt bổ sung cho tội phạm này: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.      Ngoài ra, bạn có thể tham khảo bài viết:      Tố cáo người vu khống theo quy định của pháp luật      Cấu thành tội đánh bạc theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015      Để được tư vấn chi tiết về Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT- BCA- BQP- BTP- VKSNDTC- TANDTC, quý khách vui lòng liên hệ tới tổng đài tư vấn pháp luật hình sự 19006500 để được tư vấn chi tiết hoặc gửi câu hỏi về Email: lienhe@luattoanquoc.com. Chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ câu hỏi của quý khách một cách tốt nhất.
     Luật Toàn Quốc xin chân thành ơn.

 

Tư vấn miễn phí gọi: 1900 6178