Đánh bạc có được tại ngoại không theo quy định
17:00 17/06/2020
Đánh bạc có được tại ngoại không - Luật Toàn Quốc, Do đó ta có thể hiểu người phạm tội đánh bạc sẽ không bị tạm giam mà sẽ được áp dụng các biện
- Đánh bạc có được tại ngoại không theo quy định
- Đánh bạc có được tại ngoại không
- Pháp luật hình sự
- 19006500
- Tác giả:
- Đánh giá bài viết
Đánh bạc có được tại ngoại không
Câu hỏi của bạn về đánh bạc có được tại ngoại không
Chào Luật sư! tôi có một câu hỏi mong nhận được sự giải đáp, Xin cho biết đánh bạc có được tại ngoại không?
Câu trả lời của Luật sư về đánh bạc có được tại ngoại không
Chào bạn. Luật Toàn Quốc cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về đánh bạc có được tại ngoại không, chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về đánh bạc có được tại ngoại không như sau:
1. Căn cứ pháp lý về đánh bạc có được tại ngoại không
2. Nội dung tư vấn về đánh bạc có được tại ngoại không
Đánh bạc là hành vi vi phạm pháp luật. Nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì người vi phạm phải chịu các chế tài của luật. Việc có được tại ngoại hay không khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội đánh bạc sẽ phụ thuộc vào mức độ, tính chất vi phạm cũng như nhân thân người phạm tội. Cụ thể như sau:
2.1. Tội đánh bạc là gì?
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội đánh bạc như sau:
Điều 321. Tội đánh bạc
1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng."
Mặt khách quan của tội đánh bạc
- Hành vi của tội đánh bạc theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
Người phạm tội thực hiện hành vi đánh bạc trái phép bằng nhiều hình thức khác nhau. Hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc tuy được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.
Tuy nhiên trong thực tế không phải mọi trường hợp cứ tham gia chơi được thua bằng tiền hay hiện vật đều bị coi là hành vi phạm tội, như hình thức vui chơi giải trí mà người tham gia được thua bằng tiền hay hiện vật nhưng không bị coi là hành vi phạm tội đánh bạc (chơi lô tô, xổ số, casino,…) vì các trò chơi này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Thông thường tội đánh bạc được thể hiện thông qua hành như: xóc đĩa, bầu cua, tổ tôm, tam cúc, số đề, cá cược, đá (chọi) gà, đua xe, cá cược,…một cách trái phép; thủ đoạn phạm tội cũng rất tinh vi. Tiền có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ; hiện vật có thể là tài sản, như: ô tô, xe máy, nhà cửa, gia súc, hàng hóa…
- Hậu quả của tội đánh bạc theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
Hậu quả của hành vi đánh bạc không phải là dấu hiệu bắt buộc. Cũng không phải là yếu tố định khung hình phạt. Mặc dù hành vi đánh bạc có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội như: do đánh bạc mà tan cửa nát nhà, do đánh bạc mà dẫn đến các hành vi phạm tội khác như trộm cắp, cướp giật, cướp, cưỡng đoạt, cố ý gây thương tích, giết người, gây rối trật tự công cộng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, cho vay lãi nặng. v.v…
Nhà làm luật không quy định hậu quả là yếu tố định tội hoặc yếu tố định khung hình phạt không phải vì không thấy trước được hậu quả do hành vi đánh bạc gây ra cho xã hội, mà hậu quả do hành vi đánh bạc gây ra hầu hết đã cấu thành tội phạm độc lập và tội phạm đó bao giờ cũng nguy hiểm hơn tội đánh bạc. Do đó, nếu hành vi đánh bạc mà dẫn đến những hành vi phạm tội khác thì người phạm tội còn bị truy cứu về các tội phạm tương ứng.
- Các dấu hiệu khách quan khác của tội đánh bạc theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
Đối với tội phạm này nhà làm luật không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nhưng lại quy định giá trị tiền hay hiện vật dùng để đánh bạc là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Theo quy định của điều luật tội đánh bạc chỉ cấu thành khi tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
Mặt chủ quan của tội đánh bạc
- Lỗi của tội đánh bạc theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
Người thực hiện hành vi đánh bạc trái phép được thực hiện với lỗi cố ý. Túc là người phạm tội biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, biết hậu quả có thể xảy ra và mong muốn cho hậu quả có thể xảy ra
Khách thể của tội đánh bạc
Tội đánh bạc là tội xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội, vì tội đánh bạc cũng là một tệ nạn của xã hội.
Chủ thể của tội đánh bạc
Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này [caption id="attachment_139257" align="aligncenter" width="350"] Đánh bạc có được tại ngoại không[/caption]
2.2. Đánh bạc có được tại ngoại không?
Dưới góc độ mô tả cấu trúc cấu thành tội phạm ta có thể thấy tội đánh bạc được mô tả như sau:
- Khoản 1, Có khung hình phạt là: "phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm." thì đây được xác định là tội ít nghiêm trọng.
- Khoản 2, Có khung hình phạt là: "tù từ 03 năm đến 07 năm" với khung hình phạt này thì được xác định là tội nghiêm trọng.
Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về biện pháp tạm giam như sau:
Điều 119. Tạm giam
1. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
b) Tiếp tục phạm tội;
c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
5. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
6. Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết."
Ngay tại khoản 1 điều 119 BLTTHS đã quy định rất rõ là tạm giam được áp dụng cho người phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Tội rất nghiêm trong được hiểu là tội có khung hình phạt trên 7 đến 15 lăm, Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Do đó ta có thể hiểu người phạm tội đánh bạc sẽ không bị tạm giam mà thay vào đó họ sẽ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác. Hay nói cách khác người phạm tội đánh bạc sẽ được tại ngoại. Tuy nhiên nếu người phạm tội đánh bạc mà có một trong các hành vi như đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy... thì họ vẫn có thể bị tạm giam mà không được tại ngoại.
Bạn có thể tham khảo bài viết sau:
- Cấu thành tội đánh bạc theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
- Mức tù cho tội đánh bạc qua mạng theo quy định hiện hành
Để được tư vấn chi tiết về Đánh bạc có được tại ngoại không, quý khách vui lòng liên hệ tới tổng đài tư vấn pháp luật hình sự 24/7: 19006500 để được tư vấn hoặc gửi câu hỏi về Email:[email protected]. Chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ câu hỏi của quý khách một cách tốt nhất.
Luật Toàn Quốc xin chân thành cảm ơn./.