Quy định về thu thập chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
17:26 11/05/2020
Quy định về thu thập chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập
- Quy định về thu thập chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
- Quy định về thu thập chứng cứ
- Pháp luật hình sự
- 19006500
- Tác giả:
- Đánh giá bài viết
Quy định về thu thập chứng cứ
Câu hỏi của bạn về Quy định về thu thập chứng cứ
Chào Luật sư! tôi có một câu hỏi mong nhận được sự giải đáp, Xin cho biết Quy định về thu thập chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Câu trả lời của Luật sư về Quy định về thu thập chứng cứ
Chào bạn. Luật Toàn Quốc cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về quy định về thu thập chứng cứ, chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về quy định về thu thập chứng cứ như sau:
1. Căn cứ pháp lý về quy định về thu thập chứng cứ
2. Nội dung tư vấn về quy định về thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là quá trình rất quan trọng khi thực hiện tố tụng hình sự, nếu quá trình thu thập chứng cứ không được diễn ra khách quan, đúng trình tự, thủ tục luật định thì hậu quả không thể lường trước được. Bộ luật tố tụng hình sự quy định rất rõ vấn đề này. Cụ thể2.1. Quy định chung về thu thập chứng cứ
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thu thập chứng cứ như sau:
Điều 88. Thu thập chứng cứ
1. Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
3. Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
4. Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này.
5. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
2.2. Phân tích chi tiết về thu thập chứng cứ
2.2.1. Về chủ thể có quyền thu thập chúng cứ:
Thứ nhất, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng :
Theo quy định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Thứ hai, người bào chữa:
Người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Thứ ba, Những người tham gia tố tụng khác:
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định bất kỳ cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
2.2.2. Về hoạt động thu thập chúng cứ:
Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do người bào chữa hay những người tham gia tố tụng khác cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy
Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Kết luận: chỉ những người được luật quy định mới có thể thực hiện thu thập chứng cứ, và việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện theo đúng trình tự pháp luật.
Bạn có thể tham khảo bài viết sau:
- QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ XỬ LÝ VẬT CHỨNG
- Xử lý vật chứng là tài sản bị trộm cắp theo quy định của BLTTHS 2015
Để được tư vấn chi tiết về Quy định về thu thập chứng cứ quý khách vui lòng liên hệ tới tổng đài tư vấn pháp luật hình sự 24/7: 19006500 để được tư vấn chi tiết hoặc gửi câu hỏi về Email:[email protected]. Chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ câu hỏi của quý khách một cách tốt nhất.
Luật Toàn Quốc xin chân thành cảm ơn./.
Chuyên viên: Văn Chung