• Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội
  • Công ty Luật TNHH Toàn Quốc
  • MST: 0108718004

Luật sư tư vấn gọi: 1900 6500

Dịch vụ tư vấn trực tiếp: 0918243004

Người bị mắc chứng tâm thần phân liệt giao kết hợp đồng dân sự. A (19 tuổi) là người bị mắc chứng tâm thần phân liệt thường làm nhiều việc không kiểm soát

  • Người bị mắc chứng tâm thần phân liệt giao kết hợp đồng dân sự
  • người bị mắc chứng tâm thần phân liệt
  • Pháp luật dân sự
  • 19006500
  • Tác giả:
  • Đánh giá bài viết

NGƯỜI BỊ MẮC CHỨNG TÂM THẦN PHÂN LIỆT GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

Câu hỏi của bạn:

     A (19 tuổi) là người bị mắc chứng tâm thần phân liệt thường làm nhiều việc không kiểm soát được. Tuy vậy, những lúc tỉnh táo A vẫn như người bình thường. Một hôm A mang chiếc xe Vision của mình đi bán cho B với giá 20 triệu đồng lấy tiền đi chơi và tiêu xài hết. Gia đình tìm kiếm A khắp nơi nhưng không thấy liên nhắn tin tìm A trên đài truyền hình địa phương. Vài hôm sau, A về cả nhà mới biết A đã bán rẻ chiếc xe máy cho B để lấy tiền đi chơi. Hỏi tại sao A lại làm như vậy thì A ngơ ngác không biết chuyện gì xảy ra. Hãy xác định hướng giải quyết trong các tình huống sau đây:

  1. Nếu cha mẹ A đến đòi xe với lý do: Hợp đồng giao kết với người mất năng lực hành vi dân sự thì có được không? Tại sao?
  2. Hãy tư vấn cho A đòi lại chiếc xe từ B
  3. Theo bạn, trong tình huống trên có khi nào hợp đồng A và B vẫn còn hiệu lực pháp luật không? Cơ sở pháp lý?

Câu trả lời của Luật sư:

     Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Phòng tư vấn luật qua email- Luật Toàn quốc. Chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn như sau: 

Căn cứ pháp lý:

Nội dung tư vấn về người bị mắc chứng tâm thần phân liệt giao kết hợp đồng dân sự

  1. Nếu cha mẹ A đến đòi xe với lý do: Hợp đồng giao kết với người mất năng lực hành vi dân sự thì có được không? Tại sao?

     Điều 22 BLDS quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau:

     “1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

     Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.      2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”

     Theo tình huống thì A là người bị mắc chứng tâm thần phân liệt thường làm nhiều việc không kiểm soát được; tuy nhiên những lúc tỉnh táo A vẫn như người bình thường. Như vậy, A không hoàn toàn bị mất năng lực hành vi dân sự mà vẫn có những lúc nhận thức được. Bên cạnh đó, một người bị coi là mất năng lực hành vi dân sự khi Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Theo như tình huống thì A chưa được Tòa án ra quyết định tuyên bố là người mất năng lực hành vi dân sự nên việc cha mẹ A đến đòi xe với lý do hợp đồng giao kết với người mất năng lực hành vi dân sự là không có căn cứ. [caption id="attachment_58546" align="aligncenter" width="465"]người bị mắc chứng tâm thần phân liệt Người bị mắc chứng tâm thần phân liệt giao kết hợp đồng dân sự[/caption]

  1. Hãy tư vấn cho A đòi lại chiếc xe từ B

     Trước tiên, vụ việc này có thể dựa trên sự thỏa thuận của hai bên để giải quyết, nếu không thể thỏa thuận thì cha mẹ A có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự là vô hiệu dựa trên Điều 125 BLDS quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện:

     “1. Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.      2. Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:      a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;      b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;      c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.”

     Trước khi cha mẹ A khởi kiện về vụ việc trên, cha mẹ A cần thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên bố A thuộc một trong các đối tượng theo Điều 125 BLDS. Căn cứ vào tình huống thì A không hoàn toàn bị mất năng lực hành vi dân sự mà vẫn có những lúc nhận thức được nên trường hợp này có thể xem xét A là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo Điều 23 BLDS: “Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”. Khi đó, cha hoặc mẹ A sẽ là người giám hộ và thay mặt A thực hiện các thủ tục khởi kiện tại Tòa án.

  1. Theo bạn, trong tình huống trên có khi nào hợp đồng A và B vẫn còn hiệu lực pháp luật không? Cơ sở pháp lý?

     Theo như sự phân tích từ các phần trên thì có thể thấy nếu như cha mẹ A chứng minh được, đồng thời Tòa án cũng công nhận A thuộc một trong các đối tượng theo Điều 125 BLDS thì hợp đồng mua bán xe có thể sẽ bị xem xét tuyên vô hiệu. Trường hợp cha mẹ A không chứng minh được thì sẽ không thể tuyên giao dịch dân sự vô hiệu theo căn cứ trên.

     Ngoài ra, đối với việc giao kết hợp đồng mua bán xe máy thì theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 10 Thông tư 15/2014/ TT-BCA “Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật về chứng thực”. Theo đó, hình thức của hợp đồng mua bán xe máy phải được lập thành văn bản và được công chứng hoặc chứng thực. Căn cứ Điều 129 BLDS quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức như sau:

     “Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:      1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.      2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”

     Có thể thấy rằng, trong trường hợp văn bản mua bán xe theo quy định bắt buộc phải được công chứng hoặc chứng thực nếu không thì sẽ bị vô hiệu, tuy nhiên khi các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch này thì có thể yêu cầu Tòa án công nhận hiệu lực của giao dịch này theo khoản 2 Điều 129 BLDS.

     Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm bài viết:

     Để được tư vấn chi tiết về lĩnh vực dân sự, quý khách vui lòng liên hệ tới tổng đài tư vấn 19006500 để được tư vấn chi tiết hoặc gửi câu hỏi về Email: [email protected]. Chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ câu hỏi của quý khách một cách tốt nhất.
     Luật Toàn Quốc xin chân thành cảm ơn.
Tư vấn miễn phí gọi: 1900 6178