Trách nhiệm thông báo về việc bắt người của các CQTHTT
15:03 12/06/2019
Bắt người là biện pháp ngăn chặn được quy định trọng Bộ luật tố tụng hình sự. Bản chất của biện pháp này là tức bỏ quyền tự do thân thể
- Trách nhiệm thông báo về việc bắt người của các CQTHTT
- Trách nhiệm thông báo về việc bắt người
- Pháp luật hình sự
- 19006500
- Tác giả:
- Đánh giá bài viết
Trách nhiệm thông báo về việc bắt người
Câu hỏi về trách nhiệm thông báo về việc bắt người
Chào luật sư. Lời đầu tiên cho tôi được chúc luật sư và gia đình, cùng toàn thể cộng sự của luật sư sức khỏe, may mắn, hạnh phúc và thành công.
Xin phép luật sư cho tôi hỏi: Trách nhiệm thông báo về việc bắt người của các CQTHTT
Câu trả lời về trách nhiệm thông báo về việc bắt người
Chào bạn, Luật Toàn Quốc xin cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về Trách nhiệm thông báo về việc bắt người, chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn về Trách nhiệm thông báo về việc bắt người như sau:
1. Cơ sở pháp lý về trách nhiệm thông báo về việc bắt người
2. Nội dung tư vấn về trách nhiệm thông báo về việc bắt người
Trong câu hỏi của bạn, chúng tôi hiểu rằng: “trách nhiệm thông báo về việc bắt người”. Với nội dung câu hỏi nêu trên, căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan, chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn như sau:
2.1. Có những hình thức bắt người nào?
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì có những hình thức bắt người sau:
Thứ nhất, Bắt người phạm tội quả tang
Người phạm tội quả tang được hiểu là người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Theo quy định tại điều 111 của BLTTHS năm 2015 thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Một lưu ý là khi bắt người phạm tội quả tang thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.
Thứ hai, Bắt người đang bị truy nã
Người đang bị truy nã là người đã bị các Cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định truy nã và quyết định truy nã đó đang còn hiệu lực
Theo quy định tại điều 112 của Bộ luật tố tụng hình sụ năm 2015 thì đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Khi bắt người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.
Thứ ba, Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bị can là người hoặc pháp nhân mà bản thân họ đã bị các Cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết khởi tố bị can
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử
Đối với việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì chỉ người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Thứ tư, bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ
Theo quy định bắt người bị yêu cầu dẫn độ để tạm giam hoặc thi hành quyết định dẫn độ được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thời hạn tạm giam để xem xét yêu cầu dẫn độ không quá thời hạn trong lệnh bắt giam của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ hoặc thời hạn phải thi hành hoặc còn phải thi hành hình phạt tù trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước yêu cầu dẫn độ. [caption id="attachment_161537" align="aligncenter" width="423"] Trách nhiệm thông báo về việc bắt người[/caption]
2.2. Trách nhiệm thông báo về việc bắt người
Tại điều 116 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về trách nhiệm thông báo về việc bắt người như sau:
Điều 116. Thông báo về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người
Sau khi giữ người, bắt người, người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt người phải thông báo ngay cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, bị bắt phải thông báo cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết; trường hợp người bị giữ, người bị bắt là công dân nước ngoài thì phải thông báo cho cơ quan ngoại giao của Việt Nam để thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước có công dân bị giữ, bị bắt. Nếu việc thông báo cản trở truy bắt đối tượng khác hoặc cản trở điều tra thì sau khi cản trở đó không còn, người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt người, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt phải thông báo ngay.
Như vậy theo quy định trên sau khi bắt người thì người đã ra lệnh bắt người phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết
Trong trường hợp Cơ quan Điều tra không trực tiếp bắt người thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận người bị bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết. Nếu người bị bắt là công dân nước ngoài thì phải thông báo cho cơ quan ngoại giao của Việt Nam để thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước có công dân bị bắt.
Tuy nhiên, nếu việc thông báo cản trở truy bắt đối tượng khác hoặc cản trở điều tra thì sau khi cản trở đó không còn, người ra lệnh hoặc quyết định bắt người, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.
Tóm lại, bắt người là biện pháp ngăn chặn được quy định trọng Bộ luật tố tụng hình sự. Bản chất của biện pháp này là tức bỏ quyền tự do thân thể, tự do đi lại của công dân, do vậy để thi hành biện pháp này cần phải thực hiện đúng các trình tự thủ tục của pháp luật. Mặt khác khi bắt người hoặc nhận người bị bắt thì người đã ra lệnh bắt người sẽ phải có nghĩa vụ thông báo cho cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú... nhằm tránh tình trạng hoang mang cho thân nhân người bị bắt
Bạn có thể tham khảo bài viết sau:
- Soạn thảo đơn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
- Thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự được quy định như thế nào?
Để được tư vấn chi tiết về Trách nhiệm thông báo về việc bắt người, quý khách vui lòng liên hệ tới tổng đài tư vấn pháp luật hình sự 24/7: 19006500 để được tư vấn chi tiết hoặc gửi câu hỏi về Email:[email protected]. Chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ câu hỏi của quý khách một cách tốt nhất.
Luật Toàn Quốc xin chân thành cảm ơn./.
Chuyên viên: An Dương