THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG
Kiến thức của bạn:
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động?
Câu trả lời:
Căn cứ pháp lý:
Nội dung tư vấn :
7. Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động.
Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.
Theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012, Bộ luật tố tụng dân sự cùng các Thông tư số 08/2013/TT-BLĐTBXH ngày 10 tháng 6 năm 2013 thì ta thấy được việc giải quyết tranh chấp lao động thuộc thẩm quyền của các tổ chức, cơ quan: hội đồng hoà giải lao động cơ sở; hoà giải viên; chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện; hội đồng trọng tài lao động và tòa án nhân dân.
Hội đồng hoà giải lao động cơ sở
Hội đồng hòa giải lao động cơ sở là một tổ chức do người sử dụng lao động ra quyết định thành lập (bắt buộc) tại các doanh nghiệp có Công đoàn. Thành viên của hội đồng hòa giải lao động cơ sở bao gồm đại diện ngang nhau của Ban chấp hành Công đoàn và người sử dụng lao động. Ngoài ra, hai bên có thể thoả thuận lựa chọn chuyên gia ngoài doanh nghiệp tham gia Hội đồng. Hội đồng hòa giải lao động cơ sở có nhiệm vụ hoà giải các tranh chấp lao động xảy ra tại doanh nghiệp khi có đơn yêu cầu của các bên tranh chấp.
Hoà giải viên lao động
Hòa giải viên lao động bao gồm những người đủ điều kiện luật định được Phòng Lao động thương binh xã hội, Liên đoàn Lao động cấp huyện, Công đoàn Khu công nghiệp giới thiệu hoặc cá nhân đủ điều kiện tự đăng kí theo thủ tục luật định và được Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định công nhận. Hòa giải viên lao động có nhiệm vụ hoà giải các vụ tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể xảy ra ở những đơn vị sử dụng lao động không phải là doanh nghiệp, doanh nghiệp không có hoặc chưa thành lập hội đồng hòa giải lao động cơ sở. Ngoài ra, hòa giải viên lao động còn có nhiệm vụ hoà giải các vụ tranh chấp lao động cá nhân về kỷ luật sa thải, bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, về bồi thường thiệt hại, về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, tranh chấp về bảo hiểm xã hội và tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài khi các bên có yêu cầu.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động tập thể (Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp về việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp mà tập thể lao động cho rằng người sử dụng lao động vi phạm xảy ra trên địa bàn quản lí theo đơn yêu cầu của các bên tranh chấp sau khi đã được hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động hoà giải nhưng không thành hoặc đã hết 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn yêu cầu mà hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động không tiến hành hoà giải.
Hội đồng trọng tài lao động
Hội đồng trọng tài lao động do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập theo đề nghị của Giám đốc Sở Lao động thương binh xã hội. Hội đồng trọng tài lao động gồm 5 hoặc 7 thành viên. Trong đó có một thành viên là Giám đốc hoặc Phó Giám đốc của Sở lao động thương binh xã hội làm Chủ tịch Hội đồng, một thành viên là công chức của Sở lao động thương binh xã hội (Do Giám đốc Sở cử) làm thư kí chuyên trách của Hội đồng, một thành viên là đại diện của Liên đoàn Lao động cấp tỉnh, một thành viên là đại diện của người sử dụng lao động trong tỉnh, một hoặc một số thành viên là luật gia hoặc người có kinh nghiệm trong lĩnh vực quan hệ lao động, có uy tín và công tâm. Ngoài các thành viên chính thức, Sở lao động thương binh xã hội, Liên đoàn Lao động cấp tỉnh, tổ chức đại diện của NSDLĐ mỗi đơn vị cử thêm một thành viên dự khuyết để thay thế thành viên chính thức của các đơn vị này khi vắng mặt hoặc khi phải thay đổi. Hội đồng trọng tài lao động đặt trụ sở tại Sở lao động thương binh xã hội và được Sở lao động thương binh xã hội đảm bảo điều kiện làm việc. Kinh phí hoạt động của hội đồng trọng tài lao động do Ngân sách Nhà nước bảo đảm và được tổng hợp trong kinh phí hoạt động thường xuyên của Sở.
Hội đồng trọng tài lao động hoạt động theo nhiệm kì 3 năm kể từ ngày thành lập và có nhiệm vụ:
- Hoà giải các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích (Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là tranh chấp về việc tập thể lao động yêu cầu xác lập các điều kiện lao động mới so với quy định của pháp luật lao động, thoả ước lao động tập thể,nội quy lao động đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp trong quá trình thương lượng giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động. Theo đơn yêu cầu của các bên tranh chấp sau khi đã được hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động hoà giải nhưng không thành hoặc đã hết 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn yêu cầu mà hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động không tiến hành hoà giải.
- Giải quyết các vụ tranh chấp lao động tập thể (về quyền và về lợi ích) xảy ra tại các doanh nghiệp không được đình công khi các bên có đơn yêu cầu.
Toà án nhân dân
Hiện tại, ngoài tòa án nhân dân tối cao, hệ thống tòa án nhân dân nước ta được thành lập theo địa giới hành chính (cấp huyện và cấp tỉnh), thực hiện chế độ hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm). Việc giải quyết vụ án lao động theo thủ tục sơ thẩm được tiến hành bởi các thẩm phán chuyên trách về lao động của tòa án nhân dân cấp huyện và Toà lao động tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động sau đây khi có yêu cầu:
- Tranh chấp lao động cá nhân xảy ra trên địa bàn quận, huyện...sau khi hoà giải tại hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động không thành hoặc đã hết 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn yêu cầu mà hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động không tiến hành hoà giải.
- Tranh chấp lao động cá nhân về kỉ luật sa thải, về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, tranh chấp giữa người giúp việc gia đình và người sử dụng lao động, tranh chấp về bảo hiểm xã hội, tranh chấp giữa người lao động với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Tranh chấp lao động tập thể về quyền xảy ra ở những doanh nghiệp được đình công sau khi Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện đã có quyết định giải quyết mà các bên vẫn tiếp tục tranh chấp hoặc đã hết 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn yêu cầu mà Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết.
- Tranh chấp lao động tập thể (về quyền và về lợi ích) xảy ra tại các doanh nghiệp không được đình công theo danh mục do Chính phủ quy định sau khi hội đồng trọng tài lao động đã có quyết định giải quyết mà các bên vẫn tiếp tục tranh chấp hoặc đã hết 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn yêu cầu mà hội đồng trọng tài lao động không giải quyết.
Việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp lao động cá nhân do tòa án nhân dân cấp huyện thực hiện. Toà lao động tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ tranh chấp lao động cá nhân có đương sự ở nước ngoài hoặc có tài sản ở nước ngoài hoặc phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự Việt Nam, cho Toà án nước ngoài, các vụ tranh chấp lao động cá nhân thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện nhưng tòa án nhân dân cấp tỉnh thấy cần phải lấy lên để giải quyết và các vụ tranh chấp lao động tập thể.
Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Các bên có quyền thoả thuận bằng văn bản lựa chọn Toà án nơi nguyên đơn cư trú, làm việc nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi nguyên đơn có trụ sở nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp giải quyết. Trong những trường hợp nhất định, nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp lao động theo quy định pháp luật.
Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện là cá nhân nhân danh Nhà nước giải quyết các tranh chấp lao động tập thể về quyền theo quy định của pháp luật. Về hình thức đây không phải là cấu trúc ba bên trong giải quyết tranh chấp lao động. Tuy nhiên, trong các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện thì tham vấn ba bên cũng được thực hiện ở một mức độ nhất định
Hội đồng xét sử sơ thẩm vụ án lao động thông thường bao gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân có khả năng sẽ tạo thành một cơ cấu ba bên trong việc xét xử vụ án lao động. Trong đó thẩm phán là đại diện của nhà nước, một hội thẩm nhân dân là đại diện cho người lao động và một hội thẩm nhân dân là đại diện của người sử dụng lao động
Để được tư vấn chi tiết về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động, quý khách vui lòng liên hệ tới để được luật sư tư vấn Tổng đài tư vấn pháp luật lao động 24/7: 19006500 hoặc Gửi câu hỏi về địa chỉ Email: [email protected]. Chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ câu hỏi của quý khách một cách tốt nhất.
Luật Toàn Quốc xin chân thành cảm ơn./.
Liên kết tham khảo