• Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội
  • Công ty Luật TNHH Toàn Quốc
  • MST: 0108718004

Luật sư tư vấn gọi: 1900 6500

Dịch vụ tư vấn trực tiếp: 0918243004

Những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân gia đình: kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn,

  • Quy định về những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình
  • Những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình
  • Hỏi đáp luật hôn nhân
  • 19006500
  • Tác giả:
  • Đánh giá bài viết

Những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình

Câu hỏi của bạn về những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình:

     Thưa các luật sư, em muốn nhờ luật sư tư vấn giúp em, trong trường hợp này em có thể khởi kiện anh ta vi phạm luật hôn nhân gia đình không ạ?

     Tụi em quen nhau 4 năm, ngày 26/11/2018 anh ta có rủ em đi đăng kí kết hôn. Nên tụi em đã đến xã của em để làm giấy chứng nhận độc thân bên em trước. Tuần sau, em có gặp lại anh ta, thì anh ta nói đã kết hôn được khoảng 1 tháng rồi.

     Như vậy, dựa vào tờ giấy đó thôi, liệu em có cơ sở để kiện anh ta được không ạ?

     Em xin cảm ơn quý luật sư rất nhiều !

1. Vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình là gì?

     Định nghĩa về vi phạm chế độ hôn nhân gia đình có thể thay đổi tùy theo quốc gia và luật pháp cụ thể, nhưng trong hầu hết các trường hợp, nó liên quan đến việc không tuân thủ quy định pháp luật và giá trị xã hội về hôn nhân và gia đình. Hiểu một cách đơn giản, vi phạm luật hôn nhân gia đình là các hành vi xâm phạm đến quan hệ về nhân thân và quan hệ tài sản của vợ chồng gây ra những hậu quả nhất định và ảnh hưởng đến mối quan hệ bình thường của vợ chồng.

2. Quy định chung của pháp luật về những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình

      Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cấm các hành vi:

     Thứ nhất, kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

     Thứ hai, tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

     Thứ ba, người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

     Thứ tư, kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

     Thứ năm, yêu sách của cải trong kết hôn;

     Thứ sáu, cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

    Thứ bảy, thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

     Thứ tám, bạo lực gia đình;

    Thứ chín, lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

     So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung thêm một số hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình, đó là thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính, hành vi lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi và hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.

     Đồng thời, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã bỏ quy định cấm kết hôn đồng giới như quy định của luật cũ. Những thay đổi này được đánh giá là khá hợp lí, phù hợp với điều kiện và những thay đổi về kinh tế- xã hội cũng như quá trình hội nhập của đất nước, góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, ấm no hạnh phúc ở Việt Nam, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.

3. Những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình

      Những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân gia đình đã nêu tại khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình được hiểu như sau:

     Thứ nhất, kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.

     Ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.

     Thứ hai, tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định.

    Cưỡng ép kết hôn, ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn hoặc ly hôn trái với ý muốn của họ.

     Cản trở kết hôn, ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này hoặc buộc người khác phải duy trì quan hệ hôn nhân trái với ý muốn của họ.

      Yêu sách của cải trong kết hôn là việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và coi đó là điều kiện để kết hôn nhằm cản trở việc kết hôn tự nguyện của nam, nữ.

      Đối chiếu với trường hợp của bạn, bạn và người kia chưa đăng kí kết hôn, vì vậy không thể kiện người đó về các hành vi kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo, cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng...Theo thông tin bạn đưa ra, người này đã kết hôn được 1 tháng nhưng vẫn có quan hệ tình cảm với bạn và còn rủ bạn đi đăng kí kết hôn, tuy nhiên người này và bạn chưa đăng kí kết hôn, vì vậy bạn không thể kiện người này vi phạm chế độ hôn nhân gia đình. Ngược lại, chỉ khi người này và bạn có quan hệ sống chung với nhau như vợ chồng với nhau thì người này mới vi phạm chế độ hôn nhân gia đình và khi đó, người này mới bị xử lý.

     Hôn nhân gia đình và đạo đức có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi xây dựng Luật hôn nhân gia đình phải dựa trên nền tảng đạo đức, không thể trái với đạo đức vì thế có những điều luật trong hệ thống luật hôn nhân gia đình có nội dung giống như đạo đức ở ngoài xã hội, chẳng hạn như quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em, tình yêu thương sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau giữa cha mẹ vợ chồng anh chị em… thể hiện đạo lý của người Việt Nam.

     Do hôn nhân và gia đình có mối liên hệ chặt chẽ với đạo đức và có phạm trù rất rộng, vì vậy, các quy phạm pháp luật không thể điều chỉnh hết mọi hành vi của con người mà còn phải dựa vào quy phạm đạo đức. Như với tình huống của bạn, tuy người kia đã có hành vi lừa dối bạn nhưng chưa đến mức vi phạm pháp luật, vì vậy không thể có cơ chế thích hợp để xử lý mà chủ yếu phải dựa vào quy phạm đạo đức để điều chỉnh. Những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình

4. Hỏi đáp về hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình

Câu hỏi 1. Đã tổ chức đám cưới và đã về sống chung với nhau nhưng chưa đăng ký kết hôn thì có vi phạm pháp luật không?

     Theo Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đăng ký kết hôn được quy định như sau: "Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định của pháp luật thì không có giá trị pháp lý."

     Việc tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn là vi phạm quy định về đăng ký kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình, việc kết hôn của trong trường hợp này không có giá trị pháp lý.

Câu hỏi 2. Trường hợp nào nam nữ sống chung như vợ chồng, không đăng ký kết hôn nhưng vẫn được coi là vợ chồng hợp pháp?

     Ngày 09 tháng 06 năm 2000 Quốc hội thông qua Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 về thi hành luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có hướng dẫn như sau:

3. Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:

a. Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000

     Theo quy định trên, nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 (ngày có hiệu lực của Luật hôn nhân và gia đình 1986) dù không đăng ký kết hôn vẫn được công nhận là vợ chồng hợp pháp.

     Tuy nhiên, cũng trong Nghị quyết này quy định thêm rằng trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn (bắt buộc). Thời hạn đi đăng ký là 02 năm tính từ ngày 01/01/2001, nếu sau 01/01/2003 mà họ vẫn không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng hợp pháp.

Câu hỏi 3. Khi nào thì Hành vi ngoại tình có thể bị truy cứu trách nhiệm Hình sự?

     Nếu một trong hai người có hành vi ngoại tình, chung sống với người khác như vợ chồng khi đang trong quan hệ hôn nhân, thì bên cạnh việc bị xử phạt hành chính còn có thể chịu trách nhiệm hình sự nếu dẫn đến những hậu quả sau:

  • Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
  • Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm;
  • Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
  • Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

     Bài viết liên quan: 

     Để được tư vấn chi tiết về những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân gia đình mới nhất, quý khách vui lòng liên hệ tới tổng đài tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình 19006500 để được tư vấn chi tiết hoặc gửi câu hỏi về Email: lienhe@luattoanquoc.com. Chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ câu hỏi của quý khách một cách tốt nhất.

     Luật Toàn Quốc xin chân thành cảm ơn./.

Chuyên viên: Trần Bảo Ngọc

Tư vấn miễn phí gọi: 1900 6178