Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP về việc áp dụng quy định pháp luật để giải quyết các vụ án kinh tế
14:36 30/12/2020
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp, HĐTP nhân dân tối cao đã ra Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP về giải quyết vụ án kinh tế
- Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP về việc áp dụng quy định pháp luật để giải quyết các vụ án kinh tế
- Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP về giải quyết vụ án kinh tế
- Văn bản luật doanh nghiệp
- 19006500
- Tác giả:
- Đánh giá bài viết
NGHỊ QUYẾT SỐ 04/2003/NQ-HĐTP VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, phù hợp với thực tiễn sản xuất kinh doanh trong điều kiện hiện nay, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/05/2003 để hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế (sau đây gọi là Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP về giải quyết vụ án kinh tế). Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP về giải quyết vụ án kinh tế có hiệu lực thi hành từ ngày 11/07/2003.
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hội đồng Thẩm phán nhân dân tối cao đã ra Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP về giải quyết vụ án kinh tế để hướng dẫn áp dụng quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế. Cụ thể Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP về giải quyết vụ án kinh tế quy định trong những trường hợp sau:
Việc xác định hợp đồng kinh tế vô hiệu trong Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP về giải quyết vụ án kinh tế
Việc xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu:
- Đối với tài sản là động sản
- Đối vơi tài sản là bất động sản hoặc quyền sử dụng đất
- Trách nhiệm chịu thiệt hại do hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ
Sau đây là nội dung chi tiết Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP về giải quyết vụ án kinh tế:
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, phù hợp với thực tiễn sản xuất kinh doanh trọng điều kiện hiện nay;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
QUYẾT NGHỊ:
I. VIỆC XÁC ĐỊNH HỢP ĐỒNG KINH TẾ VÔ HIỆU
Ví dụ: Trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty A chưa có đăng ký ngành nghề xây dựng công nghiệp, nhưng Công ty A đã ký hợp đồng kinh tế về việc nhận thầu thi công xây dựng nhà xưởng cho Công ty B. Trong quá trình thi công, giữa các bên có phát sinh tranh chấp từ việc thực hiện hợp đồng và một trong các bên khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết. Khi giải quyết vụ án này, nếu có đủ căn cứ cho thấy đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp Công ty A vẫn chưa được đăng ký bổ sung ngành nghề xây dựng công nghiệp thì Toà án áp dụng điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT tuyên bố hợp đồng kinh tế này vô hiệu toàn bộ và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu theo quy định tại Điều 39 Pháp Lệnh HĐKT.
b. Nếu khi ký kết hợp đồng kinh tế mộttrong các bên chưa có đăng ký kinh doanh, nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế giữa các bên có phát sinh tranh chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, bên chưa có đăng ký kinh doanh khi ký kết hợp đồng đã có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc được các bên thoả thuận trong hợp đồng thì hợp đồng kinh tế này không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và do đó không bị coi là vô hiệu toàn bộ.
Ví dụ: Nếu trong ví dụ tại điểm a mục 1 này khi giải quyết vụ án, nếu có đủ căn cứ cho thấy đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp Công ty A đã được đăng ký bổ sung ngành nghề xây dựng công nghiệp thì hợp đồng kinh tế này không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và không bị coi là vô hiệu toàn bộ.
Để phù hợp với tinh thần quy định tại Điều 154 Bộ luật Dân sự thì hợp đồng kinh tế không bị coi là vô hiệu toàn bộ, nếu người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, người mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế đó (sau đây gọi tắt là người có thẩm quyền) chấp thuận. Được coi là người có thẩm quyền chấp thuận nếu người đó đã biết hợp đồng kinh tế đã được ký kết mà không phản đối.
Được coi là người có thẩm quyền đã biết mà không phản đối khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Điểm a khoản 2 Điều 39 Pháp lệnh HĐKT quy định: "Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền, nếu tài sản đó không bị tịch thu theo quy định của pháp luật". Khi áp dụng quy định này cần phân biệt như sau:
1. Đối với tài sản là động sản
b.1. Đã được đưa vào khai thác, sử dụng;
b.2. Đã bị mất mát, hư hỏng;
b.3. Đã được chuyển giao cho người khác và đã được đưa vào khai thác, sử dụng hoặc bị mất mát, hư hỏng hoặc quá thời hạn sử dụng;
b.4. Không còn giữ được chất lượng, chức năng, công dụng của tài sản mà do lỗi của bên nhận tài sản (ví dụ: người nhận được tài sản không bảo quản theo đúng quy định);
b.5. Đã bị mất mát một hoặc một số bộ phận nào đó của tài sản mà không thể khôi phục lại được theo nguyên trạng khi nhận.
Về nguyên tắc chung, việc xử lý tài sản là bất động sản hoặc quyền sử dụng đất là buộc bên đã nhận được tài sản từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế phải hoàn trả cho bên giao tài sản.
Trong trường hợp bên đã nhận được tài sản đã tháo dỡ, sửa chữa, làm thêm mới, đầu tư làm tăng giá trị của tài sản đó, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà buộc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, tháo dỡ hoặc thanh toán tiền cho nhau, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác không trái pháp luật.
Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 39 Pháp lệnh HĐKT thì trong trường hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ, thiệt hại phát sinh các bên phải chịu mà không xem xét đến mức độ lỗi của các bên.
III. VIỆC ÁP DỤNG ĐIỂM 3 ĐIỀU 32 PHÁP LỆNH Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 39 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án kinh tế khi: "Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp là đương sự của vụ án". Khi áp dụng quy định này cần chú ý:
Đối với trường hợp Toà án đã có quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thì thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành.
IV. HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA NGHỊ QUYẾT
SỐ 04/2003/NQ-HĐTP NGÀY 27 THÁNG 5 NĂM 2003 HƯỚNG DẪN
ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
a. Nếu khi ký kết hợp đổng kinh tế một trong các bên chưa có đăng ký kinh doanh mà trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế giữa các bên có phát sinh tranh chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, bên chưa có đăng ký kinh doanh khi ký kết hợp đồng kinh tế vẫn chưa có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc được các bên thoả thuận trong hợp đồng, thì hợp đồng kinh tế này thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và bị coi là vô hiệu toàn bộ.
3. Đối với hợp đồng kinh tế mà trong nội dung của hợp đồng các bên có thoả thuận giá cả, thanh toán bằng ngoại tệ cần phân biệt như sau:
II. VIỆC XỬ LÝ HỢP ĐỒNG KINH TẾ VÔ HIỆU
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ
- Dịch vụ luật sư riêng của công chức viên chức trong các vụ án kinh tế
- Điều kiện đối để tổ chức kinh tế hoạt động trực tiếp nhận và chi trả ngoại tệ
Chuyên viên: Nguyễn Phương