• Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội
  • Công ty Luật TNHH Toàn Quốc
  • MST: 0108718004

Luật sư tư vấn gọi: 1900 6500

Dịch vụ tư vấn trực tiếp: 0918243004

Giảm thời hạn chấp hành hình phạt...điều kiện để được giảm thời hạn chấp hành hình phạt...giảm thời hạn chấp hành hình phạt đối với người chưa thành niên

  • Giảm thời hạn chấp hành hình phạt
  • Giảm thời hạn chấp hành hình phạt
  • Hỏi đáp luật hình sự
  • 19006500
  • Tác giả:
  • Đánh giá bài viết

GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT

     Bạn đang tìm hiểu quy định pháp luật về giảm thời hạn chấp hành hình phạt theo quy định của pháp luật hình sự; điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt; mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt; giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội;.... Bài viết dưới đây Luật Toàn Quốc sẽ giải đáp cho bạn toàn bộ những vướng mắc trên.

Căn cứ pháp lý:

Nội dung tư vấn:

     Giảm thời hạn chấp hành hình phạt theo quy định của pháp luật hình sự

     Trước hết, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù được hiểu là: “rút ngắn một phần thời hạn chấp hành những hình phạt mà mức độ đo được bằng thời gian (vì người chấp hành hình phạt đã cải tạo tốt)”.

    Chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt được quy định tại các khoản 1, 3, 4 điều 58 và điều 59 của bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009; là điều 63 và 64 của bộ luật hình sự 2015. Và thẩm quyền xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù thuộc về tòa án.

     1. Điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt

     Người đang chấp hành hình phạt chính phải có đủ 3 điều kiện sau đây mới được xét giảm:

  • Đã chấp hành được 1/3 thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ 30 năm trở xuống, 12 năm đối với tù chung thân.
  • Đã chứng tỏ quyết tâm cải tạo, thể hiện, có nhiều tiến bộ như thành thật hối lỗi, tích cực lao động, học tập, nghiêm chỉnh chấp hành chế độ, nội quy của trại giam hoặc chế độ cải tạo không giam giữ.
  • Có sự đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương có trách nhiệm trực tiếp giám sát việc chấp hành hình phạt.

     Cụ thể, về các điều kiện được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được quy định tại điều 6 thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT- BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC như sau:

     “Điều 6. Điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù

     1. Phạm nhân có đủ các điều kiện sau đây thì được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù:

     a) Đã chấp hành được ít nhất một phần ba thời hạn đối với hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống hoặc mười hai năm đối với tù chung thân;

     b) Có nhiều tiến bộ thể hiện ở việc chấp hành tốt Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên, cụ thể như sau:

     - Phạm nhân bị phạt tù chung thân phải có ít nhất bốn năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm thời hạn được xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp bị kết án tử hình được Chủ tịch nước ân giảm xuống tù chung thân phải có ít nhất năm năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

     - Phạm nhân bị phạt tù trên hai mươi năm đến ba mươi năm phải có ít nhất ba năm sáu tháng liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

     - Phạm nhân bị phạt tù trên mười lăm năm đến hai mươi năm phải có ít nhất ba năm liên tục liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

     - Phạm nhân bị phạt tù trên mười năm đến mười lăm năm phải có ít nhất hai năm liên tục liền kề hoặc tám quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

     - Phạm nhân bị phạt tù trên năm năm đến mười năm phải có ít nhất một năm hoặc bốn quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

     - Phạm nhân bị phạt tù trên ba năm đến năm năm phải có ít nhất sáu tháng hoặc hai quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên;

     - Phạm nhân bị phạt tù ba năm trở xuống phải có ít nhất một quý gần nhất được xếp loại từ khá trở lên.

     2. Phạm nhân được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trong trường hợp đặc biệt hoặc người chưa thành niên phạm tội, so với quy định tại điểm b khoản 1 Điều này còn thiếu một năm đầu tiên xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên của thời gian liền kề thời điểm xét giảm (đối với phạm nhân bị phạt tù từ trên mười lăm năm trở lên), thiếu một kỳ sáu tháng đầu tiên xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù từ trên năm năm đến mười lăm năm), thiếu một quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù từ trên ba năm đến năm năm) hoặc chưa được xếp loại chấp hành án phạt tù (đối với phạm nhân bị phạt tù từ ba năm trở xuống) nhưng thời gian bị tạm giữ, tạm giam hoặc ở trại giam được nhận xét là chấp hành nghiêm chỉnh Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ và có đủ các điều kiện khác thì vẫn có thể được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

     3. Phạm nhân có đủ điều kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, phạm nhân thuộc trường hợp đặc biệt hoặc người chưa thành niên phạm tội có số kỳ được xếp loại từ khá trở lên bằng hoặc nhiều hơn so với quy định tại điểm b khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng không liên tục, vẫn có thể được xem xét đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, nếu có ít nhất hai kỳ sáu tháng liên tục liền kề với thời điểm đề nghị xét giảm được xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù trên mười năm) hoặc hai quý liên tục được xếp loại từ khá trở lên (đối với phạm nhân bị phạt tù từ mười năm trở xuống).

     4. Phạm nhân có tiền án phải có thời gian thử thách nhiều hơn và có số kỳ xếp loại từ khá trở lên nhiều hơn so với những phạm nhân chưa có tiền án, ứng với mỗi tiền án là một kỳ sáu tháng xếp loại từ khá trở lên. Đối với phạm nhân bị phạt tù từ 3 năm trở xuống, ứng với mỗi tiền án là một quý xếp loại từ khá trở lên.

     5. Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù phải liên tục được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giám thời hạn đúng đợt. Trường hợp không đủ điều kiện để được xét giảm đúng đợt thì được xem xét, đề nghị giảm thời hạn khi có đủ bốn quý xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên (trong đó phải có ít nhất hai quý liền kề thời điểm xét giảm).

     6. Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà vi phạm Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ bị xử lý kỷ luật, sau khi được Giám thị trại giam, trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện công nhận đã cải tạo tiến bộ và có đủ bốn quý liền kề (đối với phạm nhân bị kỷ luật khiển trách hai lần trong kỳ xếp loại hoặc kỷ luật cảnh cáo) hoặc năm quý liền kề (đối với phạm nhân bị giam tại buồng kỷ luật) được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên thì mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

     7. Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà lại phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì phải chấp hành được ít nhất hai phần ba mức hình phạt chung hoặc hai mươi năm nếu là tù chung thân và phải có đủ điều kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều này mới được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

     8. Người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù hoặc người đang được áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc được bảo lưu kết quả chấp hành án phạt tù và được tính liên tục liền kề với thời gian sau khi trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án. Khi những người này trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án, nếu có đủ điều kiện quy định tại các khoản nêu trên của Điều này và trong thời gian được tạm đình chỉ hoặc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, được chính quyền địa phương nơi người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù về cư trú hoặc cơ sở y tế điều trị cho người được áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc xác nhận thì mới được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.” [caption id="attachment_35813" align="aligncenter" width="284"]Giảm thời hạn chấp hành hình phạt Giảm thời hạn chấp hành hình phạt[/caption]

     2. Mức giảm

     Thứ nhất, mức giảm đối với các trường hợp thông thường

     Quy định chung của bộ luật hình sự: Bộ luật hình sự chỉ quy định mức giảm cụ thể đối với trường hợp người bị kết án tù chung thân lần đầu được giảm xuống 30 năm tù (khoản 3 điều 58 bộ luật hình sự). Đối với người bị kết án phạt tù từ 30 năm trở xuống thì mỗi lần có thể được giảm từ 3 tháng tới 3 năm. Những trường hợp giảm đến 3 năm phải là người bị kết án có thành tích đặc biệt. Một người có thể được giảm nhiều lần nhưng phải đảm bảo thực sự chấp hành hình phạt tù từ ½ mức phạt đã tuyên. Người bị phạt tù chung thân dù được giảm nhiều lần nhưng cũng phải đảm bảo thời hạn thực tế chấp hành hình phạt tù là 20 năm.

     Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, mỗi lần có thể được giảm từ 3 tháng tới 9 tháng mức hình phạt đã tuyên.

     Quy định cụ thể: tại thông tư 02/2013/TTLT- BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC quy định tại điều 7 về mức giảm cụ thể đối với từng trường hợp như sau:

  • Phạm nhân bị phạt tù chung thân, lần đầu được giảm xuống ba mươi năm.
  • Phạm nhân bị phạt tù từ ba mươi năm trở xuống, mỗi lần có thể được giảm từ một tháng đến ba năm. Trường hợp được giảm ba năm phải là những phạm nhân chấp hành nghiêm chỉnh Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ và lập công hoặc có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, học tập cải tạo.
  • Mỗi năm một phạm nhân chỉ được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù một lần, khoảng cách giữa hai lần xét giảm ít nhất là một năm. Trường hợp đã được giảm mà thời hạn tù còn lại không đủ một năm thì năm tiếp theo có thể đề nghị xét giảm sớm hơn trước một đợt, nhưng vẫn phải bảo đảm mỗi năm chỉ được xét giảm một lần.

     Trường hợp sau khi đã được giảm thời hạn mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng như lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm thêm nhưng không được quá hai lần trong một năm.

  • Mỗi phạm nhân có thể được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành án phạt tù được một phần hai mức hình phạt tù có thời hạn đã tuyên hoặc hai mươi năm đối với hình phạt tù chung thân.

     Thứ hai, mức giảm đối với trường hợp đặc biệt

     Điều 59 bộ luật hình sự quy định về các trường hợp đặc biệt về giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù. Những trường hợp đặc biệt này là những người phạm tội có những lí do đặc biệt đáng để hưởng khoan hồng như: đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Trong trường hợp này tòa án có thể xét giảm đối với người bị kết án vào thời hạn sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định tại điều 58 của bộ luật hình sự. Người quá già yếu được hiểu là người 70 tuổi trở lên hoặc những người 60 tuổi trở lên có bệnh tật nặng phải nằm bệnh viện, bệnh xá thường xuyên. Hiện nay, thời hạn xét giảm cụ thể lớn hơn bao nhiêu, mức giảm cụ thể cao hơn thế nào chưa có văn bản điều chỉnh.

     Điều 8 thông tư liên tịch 02/2013/TTLT- BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC quy định về mức giảm hình phạt tù trong trường hợp đặc biệt cụ thể như sau:

  • Phạm nhân đã chấp hành được ít nhất một phần tư mức hình phạt đã tuyên đối với án phạt tù từ ba mươi năm trở xuống hoặc mười năm đối với tù chung thân và có đủ điều kiện về xếp loại chấp hành án phạt tù quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 6 Thông tư liên tịch này, có thể được xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
    • Phạm nhân đã lập công. Mỗi lần lập công, phạm nhân chỉ được xem xét, đề nghị giảm thời hạn một lần;
    • Phạm nhân đã quá già yếu;
    • Phạm nhân mắc bệnh hiểm nghèo.
  • Mức giảm mỗi lần cao nhất cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này là bốn năm, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án phạt tù ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên hoặc mười lăm năm đối với hình phạt tù chung thân.
  • Trong trường hợp đặc biệt, khi có đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và được sự đồng ý của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, phạm nhân có thể được xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc mức giảm cao hơn so với quy định ở khoản 1, khoản 2 Điều này.

     3. Giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội

     Riêng đối với trường hợp là người chưa thành niên phạm tội phải chịu hình phạt tù thì việc xét giảm đối với trường hợp này được quy định riêng. Người chưa thành niên phạm tội muốn được xét giảm cũng phải đảm bảo thỏa mãn những điều kiện cơ bản để được xét giảm. Cụ thể quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại điều 8 thông tư 02/2013/TTLT- BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC như sau:

  • Phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội nếu đã chấp hành được ít nhất một phần tư mức hình phạt đã tuyên và có đủ điều kiện quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 6 Thông tư liên tịch này thì có thể được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
  • Phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội đã lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm ngay mà không cần điều kiện đã chấp hành được ít nhất một phần tư mức hình phạt đã tuyên.
  • Mức giảm mỗi lần cao nhất đối với phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội là bốn năm, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.
  • Phạm nhân là người chưa thành niên, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà sau khi được xét giảm, thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại không quá một năm thì có thể được miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại.

      Một số bài cùng chuyên mục bạn có thể tham khảo tại:

Liên hệ Luật sư tư vấn về giảm thời hạn chấp hành hình phạt

+ Tư vấn qua Tổng đài 19006500: Đây là hình thức tư vấn hiệu quả và nhanh nhất, vì bạn có thể đặt thêm các câu hỏi về giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Chỉ sau một vài câu hỏi của Luật Sư, vấn đề của bạn sẽ được giải quyết.

+ Tư vấn qua Zalo: Tư vấn về giảm thời hạn chấp hành hình phạt số điện thoại zalo Luật Sư: 0931191033

+ Tư vấn qua Email: Gửi câu hỏi giảm thời hạn chấp hành hình phạt tới địa chỉ Email: [email protected] chúng tôi sẽ biên tập và trả lời qua Email cho bạn.

      Xin chân thành cảm ơn sự đồng hành của mọi người.

      Trân trọng.

     Liên kết ngoài tham khảo:

 
Tư vấn miễn phí gọi: 1900 6178