• Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội
  • Công ty Luật TNHH Toàn Quốc
  • MST: 0108718004

Luật sư tư vấn gọi: 1900 6500

Dịch vụ tư vấn trực tiếp: 0918243004

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự..Ngoài các tình tiết trên trong khi xét xử tòa còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết để giảm nhẹ..

  • Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
  • Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
  • Hỏi đáp luật hình sự
  • 19006500
  • Tác giả:
  • Đánh giá bài viết

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

Kiến thức cho bạn:

     Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của bộ luật hình sự.

Kiến thức của Luật sư:

Căn cứ pháp lý:

  • Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Nội dung tư vấn:       Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 1999 quy định:

1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.[/symple_box]

     Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

     1. Nội dung điều luật

     Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 26 bộ luật hình sự. Để được coi là tình tiết giảm nhẹ thì đó phải là tình tiết được quy định trong điều 46 hoặc có thể là tình tiết khác được tòa án xác định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để cân nhắc khi quyết định hình phạt.

     “Điều 46. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

     1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

     a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

     b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;

     c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

     d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

     đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra;

     e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

     g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

     h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

     i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;

     k) Phạm tội do lạc hậu;

     l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

     m) Người phạm tội là người già;

     n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

     o) Người phạm tội tự thú;

     p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

     q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;

     r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

     s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác.

     Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

     Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.”

     Lưu ý: Đối với mỗi loại tội, không phải tất cả các tình tiết được nêu tại điều 46 đều có thể là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Chỉ những tình tiết giảm nhẹ không được điều luật về loại tội đó quy định là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt mới có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ đối với loại tội đó.

     Hoặc theo quy định tại điều 47, bộ luật hình sự, tội phạm có thể được giảm khung hình phạt nếu có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm được pháp luật quy định là tình tiết giảm nhẹ, cụ thể: “Điều 47. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật: Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.”

     2. Phân tích

     Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có thể được phân chia thành 3 nhóm khác nhau, cụ thể như sau

     Nhóm 1: Các tình tiết làm giảm xuống đáng kể mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

     Thứ nhất, các tình tiết liên quan đến mức độ hậu quả

  • Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm: đây là trường hợp mà người phạm tội đã thực hiện tội phạm, nếu không có gì ngăn cản thì hậu quả của tội phạm sẽ xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn nhưng người phạm tội đã ngăn chặn không cho hậu quả của tội phạm xảy ra hoặc hạn chế được thiệt hại. Mức độ giảm nhẹ này phụ thuộc vào thái độ chủ quan của người phạm tội đối với hành vi ngăn chặn hoặc giảm bớt thiệt hại (có tích cực, tự nguyện không..) và thực tế tác hại đã được ngăn chặn như thế nào.
  • Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả: người phạm tội tự nguyện hạn chế hậu quả của tội phạm một cách tự nguyện, không có sự đòi hỏi. Biểu hiện như: sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần hoặc có những hành vi khác khắc phục hậu quả. Mức độ giảm nhẹ trong trường hợp này phụ thuộc vào sự cố gắng của người phạm tội cũng như mức độ hậu quả được khắc phục trên thực tế.
  • Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn: trường hợp này có nguyên nhân khách quan nằm ngoài ý muốn của người phạm tội; do hậu quả của tội phạm cũng là yếu tố quyết định mức nguy hiểm cho xã hội nên luật hình sự coi trường hợp này mà một trong số các căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

     Thứ hai, các tình tiết phản ánh đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi và người phạm tội

     Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng: là trường hợp lần đầu tiên phạm tội nhưng phải là loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc nếu là tội phạm nghiêm trọng thì phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Mức độ giảm nhẹ trong trường hợp này phụ thuộc vào mức độ ít nghiêm trọng của hành vi phạm tội.

     Thứ ba, tình tiết ảnh hưởng đến mức độ lỗi

  • Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; hoặc Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; hoặc Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra: người phạm tội thực hiện tội phạm khi không làm chủ về tình cảm do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác tác động. Mức độ giảm nhẹ trong từng trường hợp phụ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tác động, mức độ kích động và mức độ phản ứng của người bị kích động…
  • Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra: người phạm tội thực hiện tội phạm do chịu sự tác động, chi phối bởi hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do khách quan đưa lại. Đó phải là hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với mức bình thường; có thể lấy ví dụ như: thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn hoặc do nguyên nhân khách quan khác. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong tình tiết này phụ thuộc vào mức độ khó khăn và mức độ cố gắng tìm cách khắc phục của người phạm tội.
  • Phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức: trong trường hợp này người phạm tội do bị đe dọa, cưỡng bức nên không hoàn toàn tự do lựa chọn, điều khiển hành vi của mình và bị buộc phải thực hiện tội phạm theo ý chí của người có hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức. Đe dọa trong trường hợp này được hiểu là đe dọa sẽ gây thiệt hại như gây thương tích hoặc gây thiệt hại về tài sản, hủy hoại tài sản..nếu người bị đe dọa không thực hiện theo yêu cầu. Cưỡng bức là hành vi dùng vũ lực uy hiếp tinh thần của người khác để họ buộc phải thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình như đánh đập, giam giữ người bị cưỡng bức… Mức độ giảm nhẹ trong trường hợp này phụ thuộc vào mức độ bị đe dọa hoặc cưỡng bức.
  • Phạm tội do lạc hậu: do trình độ nhận thức lạc hậu, thấp kém đã hạn chế nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Mức giảm nhẹ trong trường hợp này phụ thuộc vào mức độ lạc hậu của người phạm tội trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương nơi tội phạm sinh sống.
  • Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình: người phạm tội do có bệnh làm khả năng nhận thức và điều khiển hành vi bị hạn chế nên đã không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm hoặc có thể nhận thức được tính nguy hiểm nhưng lại hạn chế khả năng điều khiển hành vi. Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào mức độ hạn chế khả năng nhận thức hoặc mức độ hạn chế điều khiển hành vi của người phạm tội.
[caption id="attachment_31101" align="aligncenter" width="220"]Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự[/caption]

     Nhóm 2: Các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội

  • Người phạm tội tự thú: người phạm tội chưa bị phát hiện nhưng đã tự đến cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo hành vi phạm tội của mình.
  • Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải: người phạm tội đã khai rõ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội của mình (thành khẩn khai báo); người phạm tội đã day dứt, hối hận về tội phạm đã thực hiện và thể hiện mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực lao động, tham gia các hoạt động cộng đồng,..
  • Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm: người phạm tội cung cấp bằng chứng, tài liệu, tin tức cho cơ quan có trách nhiệm hoặc làm mọi việc theo yêu cầu của các cơ quan đó để điều tra tội phạm mà họ tham gia hoặc về tội phạm khác hoặc người phạm tội khác mà họ biết. Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào hiệu quả của hành vi của người phạm tội vì sự giúp đỡ các cơ quan.
  • Người phạm tội đã lập công chuộc tội: đây là trường hợp mà người phạm tội đã có thành tích đột xuất tương đối đặc biệt như thành tích trong cứu hỏa, chống bão, lũ lụt hoặc trong việc cứu người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.. việc lập công này phần nào đã chứng minh sự ăn năn, hối cải lỗi lầm của họ.
  • Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác: những biểu hiện có thể thấy như người phạm tội được tặng thưởng huân, huy chương, bằng lao động sáng tạo, bằng khen của Chính phủ hoặc có sáng chế, phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sĩ thi đua,…

     Nhóm 3: Các tình tiết phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội

  • Người phạm tội là phụ nữ có thai: người phụ nữ phạm tội trong thời gian mang thai, đây là thời điểm người phụ nữ có nhiều thay đổi về tâm- sinh lí và sức khỏe. Vì chính sách nhân đạo đối với bà mẹ và trẻ em nên người phụ nữ mang thai phạm tội sẽ bị xử lý nhẹ hơn người bình thường.
  • Người phạm tội là người già: Thực tế chưa có quy định cụ thể người đạt độ tuổi bao nhiêu trở lên là người già, nhưng trong thực tiễn xét xử từ trước tới nay vẫn thừa nhận người từ 60 tuổi trở lên là người già.

     Ngoài các tình tiết nêu trên, trong khi xét xử tòa còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

     Thực tiễn xét xử từ trước tới nay vẫn coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một số tình tiết sau:

  • Người phạm tội là thương binh hoặc có người nhà thân thích như vợ, chồng, bố, mẹ hoặc con là liệt sĩ.
  • Người phạm tội là người tàn tật nặng do tai nạn trong lao động hoặc trong công tác.
  • Phạm tội trong trường hợp người bị hại cũng có lỗi.

      Một số bài viết cùng chuyên mục bạn có thể tham khảo tại:

     Thẩm quyền khởi tố vụ án Hình sự của Cơ quan điều tra

     Khởi tố vụ án hình sự

     Khởi tố bị can theo pháp luật tố tụng hình sự

     Căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật

     Trên đây là tư vấn pháp luật của chúng tôi về Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của bộ luật hình sự. Nếu còn bất cứ vướng mắc nào, bạn vui lòng liên hệ tới Tổng đài tư vấn luật hình sự miễn phí 24/7 : 19006500 để gặp trực tiếp luật sư tư vấn và  để  yêu cầu  cung cấp dịch vụ. Hoặc Gửi nội dung tư vấn qua email: [email protected]Chúng tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của bạn.Chúng tôi luôn mong nhận được ý kiến đóng góp của mọi người để chúng tôi ngày càng trở lên chuyên nghiệp hơn.

      Xin chân thành cảm ơn sự đồng hành của mọi người.

      Trân trọng ./.

     Liên kết ngoài tham khảo:

Tư vấn miễn phí gọi: 1900 6178