• Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội
  • Công ty Luật TNHH Toàn Quốc
  • MST: 0108718004

Luật sư tư vấn gọi: 1900 6500

Dịch vụ tư vấn trực tiếp: 0918243004

Điều 134 Bộ luật Hình sự 1999, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi bắt người làm con tin

  • Điều 134 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009
  • điều 134 bộ luật hình sự
  • Hỏi đáp luật hình sự
  • 19006500
  • Tác giả:
  • Đánh giá bài viết

TỘI BẮT CÓC NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 

Kiến thức của bạn: 

    Quy định của pháp luật Hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

Kiến thức của luật sư

     Căn cứ pháp lý:

 Nội dung tư vấn: Khoản 1 Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định:
1. Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: a) Cơ quan điều tra; b) Viện kiểm sát; c) Toà án.
  Điều 134 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.

Định nghĩa: Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi bắt người làm con tin nhằm buộc người khác phải nộp cho mình một khoản tiền hoặc tài sản thì mới thả người bị bắt.

Bắt người làm con tin là bắt và giữ lại để buộc người muốn chuộc phải bảo đảm thực hiện một lời hứa nhằm thoả mãn một yêu sách của người bắt, nhưng chỉ bắt người làm con tin nhằm buộc người muốn chuộc phải giao tài sản hoặc một số tiền thì mới là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu bắt cóc nhằm mục đích khác thì không phải là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể mà người có hành vi bắt cóc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội cướp tài sản. Tuy nhiên, người phạm tội từ dủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 134, vì khoản 1 Điều 134 là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; khoản 1 Điều 134 chỉ là tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như tội cướp tài sản, tức là  cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể ( quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nên trong cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại vừa bị xâm phạm đến tài sản vừa bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

a) Hành vi khách quan

Bắt cóc là hành vi bắt người trái pháp luật. Thông thường hành vi bắt người làm con tin được thực hiện một cách lén lút và đưa người bị bắt đến một nơi nào đó rồi tìm cách thông báo cho người thân của người bị bắt cóc biết, cùng với yêu cầu người thân của họ phải nộp một số tiền thì mới thả người bị bắt cóc, nếu không nộp tiền hoặc tài sản thì người bị bắt cóc sẽ bị nguy hiểm đén tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm.

Hành vi bắt người trái pháp luật được thực hiên bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn khác như cho uống thuốc ngủ, thuốc mê, xịt ête, lừa dối... để bắt được người làm con tin. 

Người bị bắt cóc làm con tin là người bất kỳ ( người lớn, trẻ em, người già, nam giới, nữ giới..., không phân biệt tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội...).

b) Hậu quả

Cũng như tội cướp tài sản, hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin là tội phạm đã hoàn thành. 

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi bắt cóc người làm con tin lại nhằm một mục đích khác mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác. 

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt
Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phu thuộc vào những yếu tố sau: - Người phạm tội dùng vũ lực để bắt cóc người làm con tin phải bị phạt nặng hơn trường hợp không dùng vũ lực; - Nếu dùng vũ lực lại gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân có tỷ lệ thương tật dưới 11% phải bị phạt nặng người phạm tội không gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân; - Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;   - Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ; - Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ; - Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản;
  1. Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự

a)Phạm tội có tổ chức Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội cướp tài sản có tổ chức được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự, các dấu hiệu về phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tổ chức còn có những đặc điểm riêng sau: Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin; canh giữ con tin; dụ dỗ, khống chế, hăm doạ con tin; chuyển những tin tức cho cơ quan, tổ chức hoặc người thân của con tin; tiếp nhận tài sản hoặc tiền chuộc con tin... Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Người xúi giục trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như: gọi điện cho người thân của người bị bắt cóc, chuyển thư, nắn tin cho người thân của người bị bắt cóc ( con tin ), nhận tiền hoặc tài sản của người thân của con tin chuyển giao cho đồng bọn... 

b) Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự, tức là người phạm tội lấy việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là phương tiện sinh sống chính của mình.

c) Tái phạm nguy hiểm Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm đối với tội cướp tài sản và cũng hoàn toàn giống với tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

d) Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cướp tài sản có sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự.

đ. Phạm tội đối với trẻ em Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đối với trẻ em là trường hợp người phạm tội bắt cóc trẻ em làm con tin hoặc tuy không bắt cóc trẻ em làm con tin nhưng chiếm đoạt tài sản của trẻ em bằng thủ đoạn bắt cóc người thân của trẻ em để buộc trẻ em phải nộp tiền chuộc. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử người phạm tội chủ yếu bắt cóc trẻ em làm con tin để cha mẹ, hoặc người thân phải nộp cho chúng một khoản tiền chuộc. Trẻ em, theo quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi là trẻ em.

e) Phạm tội đối với nhiều người Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đối với nhiều người là trường hợp người phạm tội bắt cóc từ hai người trở lên làm con tin hoặc buộc từ hai người trở lên phải nộp tiền chuộc.

g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% Đây là trường hợp người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã gây thương tích cho người bị bắt cóc làm con tin mà có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%. Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của con tin bằng nhiều phương pháp và thủ đoạn khác nhau như: đánh đập, tra khảo, bắt nhịn đói, nhịn khát, bỏ rét, giam cầm.v.v...

h) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi tiệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng Đây là trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã lấy được tài sản hay chưa. Bởi lẽ, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là tội cấu thành hình thức, nên chỉ cần có căn cứ xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng là người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự rồi.

i) Gây hậu quả nghiêm trọng Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra: - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 11% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 11% đến 30%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật dưới 11% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 50.000.000 đồng, ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt;  - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt

  1. Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội  quy định tại điểm g khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ người bị bắt làm con tin trường hợp này có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.

b) Chiếm đoạt tài sản có gía trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tài sản bị chiếm đoạt ở mức từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng Trương hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm i khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả mà người phạm tội gây ra trong trường hợp này là hậu quả rất nghiêm trọng. Căn cứ vào các quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt gây ra:  - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 200.000.000 đồng, ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt;  - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;

  1. Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự

a) Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm g khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ người bị bắt làm con tin trường hợp này có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.

b) Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản làm chết người Người bị chết trong trường hợp này là người bị bắt làm con tin, nguyên nhân bị chết không phải là là do người phạm tội trực tiếp gây ra, nếu người phạm tội có hành vi tước đoạt tính mạng người bị bắt làm con tin, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội giết người.

c) Chiếm đoạt tài sản có gía trị từ năm trăm triệu đồng trở lên Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.

d) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng Trương hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm i khoản 2 và điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ hậu quả mà người phạm tội gây ra trong trường hợp này là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự vì nó cũng là một tình tiết định khung hình phạt được quy định trong một khung. Căn cứ vào các quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự, qua thực iễn xét xử có thể coi  những thiệt hại sau đây là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt gây ra: - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 61% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người đó cộng lại từ 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 500.000.000 đồng, ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt;  - Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên, nhưng không phải là tài sản bị chiếm đoạt;

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại khoản 5 Điều 134 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.    Liên kết ngoài tham khảo:
Tư vấn miễn phí gọi: 1900 6178